Huế là quà tặng của thiên nhiên dành cho Tổ quốc nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt diệu.
Riêng với người dân miền Trung đêm ngày vật lộn với thiên tai khắc nghiệt để sinh tồn và phát triển, Huế là một sự đền bồi cho những thiệt thòi họ gánh chịu, như gia đình nghèo mà may mắn sinh được con gái đẹp vậy.
Nhà thơ nào đến Huế lại không có thơ viết về Huế để trả ơn mảnh đất đã khơi nguồn thi hứng cho mình.
Bài thơ “Tạm biệt” của Thu Bồn nảy sinh từ trong mối giao hoà tình cảm ấy.
Tạm biệt
Anh trở về hoá đá phía bên kia
Các nhà thơ có “ba bảy đường” viết về Huế. Người này phác họa hình ảnh cô gái Kim Long. Người khác đem lòng tha thiết cùng trăng Vỹ Dạ, da diết cùng mưa Huế. Bởi Huế đẹp nên nhiều thi nhân viết được thơ hay về Huế là lẽ thường. Nhưng vì đã có nhiều thơ hay về Huế và vì chính Huế vốn đã là “bài thơ đô thị tuyệt tác” nên viết về Huế cho mới, cho độc đáo là cả một thử thách. Thu Bồn đã vượt qua “cửa ải” ấy của thơ, tìm cách nói mới để nói cho được cái đặc thù của Huế, để có được những khám phá mới về Huế. Cái độc đáo của nhà thơ là đã chọn thời khắc tạm biệt giữa mình với Huế để xây dựng tứ thơ. Chắc chắn đó là thời khắc đặc biệt khiến nhà thơ thấu hết cõi lòng mình vấn vương với Huế thân thiết như máu thịt mà có lẽ lúc bình thường không thấu hết:
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu
Không ít nhà thơ nhận diện Huế chưa đầy đủ, nếu không nói là phiến diện, thiên lệch, dù họ ca ngợi Huế rất thành tâm. Nói Huế đẹp, Huế thơ, Huế mộng mơ đều đúng cả. Nhưng đó là những lời ca chưa đủ, như những vòng hoa nhỏ khoác không xứng vừa lên mình Huế diễm lệ. Thu Bồn nhận diện Huế toàn vẹn hơn:
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
hay:
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Cảm Huế, hiểu Huế một cách sâu sắc và toàn vẹn vậy rồi, thế mà nhà thơ vẫn chạnh lòng chợt hỏi: “Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu”. Câu hỏi chẳng qua chỉ là “cái cớ” để đẩy cảm xúc bài thơ lên đến cao trào, thể hiện qua hai câu thơ tuyệt bút:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Thu Bồn tiếp nhận ảnh hưởng của người đi trước, nhưng có sáng tạo. Câu kết bài thơ vay mượn hình ảnh cổ tích để diễn tả khá đạt “nỗi đau” khắc khoải và dằng dặc của người xa Huế:
Anh trở về hoá đá phía bên kia