Nhà thơ Tản Đà là một tác giả văn học để lại dấu ấn ở rất nhiều thể loại, và gần như ở thể loại nào ông cũng có nét độc đáo riêng. Cùng VOH đến với một số bài thơ Tản Đà nổi tiếng đi vào lòng người đọc qua bao thế hệ.
Tản Đà (1889 - 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam.
Cha ông là Nguyễn Danh Kế, làm quan Ngự sử dưới triều Nguyễn. Mẹ ông là bà Lưu Thị Hiền (nghệ danh là Nhữ Thị Nhiêm), một đào hát tài sắc. Tản Đà chính là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Tản Đà được tiếp xúc với nền Nho giáo từ nhỏ. Giai đoạn niên thiếu, phần lớn thời gian ông tập trung vào con đường thi cử. Sau nhiều lần thi cử thất bại, ông chán nản, lúc này ông kết giao được với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người bạn mới gặp như đã quen, đêm ngày uống rượu, làm thơ đọc sách, thưởng trăng. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông đã ra đời trong giai đoạn này.
Sau khi anh trai mất, Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ Khối tình con I. Đến năm 1917 ông cho ra đời cuốn Giấc mộng con và một số vở tuồng như: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Nhai…
Giai đoạn năm 1917 - 1918, cái tên Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Từ năm 1919 đến 1921, ông thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà thư cục), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông.
Những sách quan trọng nhất trong sự nghiệp của Tản Đà hầu hết đều được xuất bản trong giai đoạn này như: Tản Đà tùng văn (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện Thề Non Nước, 1922); Truyện thế gian tập I và II (1922), Trần ai tri kỷ (1924), Quốc sử huấn nông (1924), và tập Thơ Tản Đà (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 1926, khi Hữu Thanh tạp chíđình bản, Tản Đà cho ra đời An Nam tạp chí. Đây là tờ báo mà ông đã dành hết tâm huyết, cũng là mở ra quãng đời lận đận của ông.
Có thể nói, từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, Tản Đà chính là nhà thơ được nhiều độc giả yêu mến nhất trên văn đàn. Dù về sau, phong trào Thơ mới bùng nổ thì cái tên Tản Đà vẫn được yêu thích. Thậm chí, nhiều người xem ông như một ông Thánh của làng thơ…
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Tản Đà viết rất nhiều thể loại cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông có đủ sự lãng mạn, ý tưởng ngông nghênh và mang đậm phong cách cá nhân.
Không chỉ sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát. Ông được biết đến là một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.
Bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chính là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ông. Bài thơ mang nét cá tính, độc đáo, mạch thơ đi theo một câu chuyện cụ thể, hấp dẫn, đặc biệt cái “ngông” của tác giả cũng được thể hiện một cách rõ ràng nhưng lại vô cùng thu hút.
Sau Nguyễn Khuyến và Tú Xương, Tản Đà chính là người tiếp tục phất lên ngọn cờ thi ca Việt Nam thế kỷ XX (trước khi Thơ mới xuất hiện). Là cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, thơ Tản Đà không chỉ viết lên tiếng lòng ông hay những biến đổi thời cuộc, thơ của ông còn là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau về tinh thần sáng tạo, sự đột phá, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật.
Dưới đây là những bài thơ hay của Tản Đà được đánh giá cao trên thi đàn văn học nước nhà.
Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non. Nhớ nhời “nguyện nước thề non”, Nước đi chưa lại, non còn đứng không. Non cao những ngóng cùng trông, Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày. Xương mai một nắm hao gầy, Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương. Giời tây chiếu bóng tà dương, Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. Non cao tuổi vẫn chưa già, Non thời nhớ nước, nước mà quên non! Dẫu rằng sông cạn đá mòn, Còn non còn nước, hãy còn thề xưa. Non xanh đã biết hay chưa? Nước đi ra bể lại mưa về nguồn. Nước non hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi! Nước kia dù hãy còn đi, Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. Nghìn năm giao ước kết đôi, Non non nước nước không nguôi nhời thề.
Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi. Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Có bầu, có bạn, can chi tủi, Cùng gió, cùng mây, thế mới vui. Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám. Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.
Đêm qua chẳng biết có hay không, Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng. Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Nguyên lúc canh ba nằm một mình, Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh. Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống, Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng Ra sân cùng bóng đi tung tăng Trên trời bỗng thấy hai cô xuống Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
- “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga, Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà! Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”
Ước mãi bây giờ mới gặp tiên! Người tiên nghe tiếng lại như quen! Văn chương nào có hay cho lắm Trời đã sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô tiên lên đường mây Vù vù không cánh mà như bay. Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy. Ghế bành như tuyết vân như mây Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.
Chư tiên ngôi quanh đã tĩnh túc Trời sai pha nước để nhấp giọng. Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!” - “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc.”
Đọc hết văn vần sang văn xuôi Hết văn thuyết lí lại văn chơi Đương cơn đắc ý đọc đã thích Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài hơi tốt ran cung mây! Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay. Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
- “Bẩm con không dám man cửa Trời Những áng văn con in cả rồi Hai quyển Khối tình văn thuyết lí Hai Khối tình con là văn chơi Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết Đài gương, Lên sáu văn vị đời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch Đến quyển Lên tám nay là mười Nhờ Trời văn con còn bán được Chửa biết con in ra mấy mươi?
Văn đã giàu thay, lại lắm lối Trời nghe Trời cũng bật buồn cười! Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: - “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!” Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khi văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết! Chẳng hay văn sĩ tên họ gì? Người ở phương nào, ta chưa biết.”
- “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn Quê ở Á châu về Địa cầu Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.”
Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu Sai bảo thiên tào lấy sổ xét. Thiên tào tra sổ xét vừa xong Đệ sổ lên trình Thượng đế trông - “Bẩm quả có lên Nguyễn Khắc Hiếu Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Trời rằng: “Không phải là Trời đày. Trời định sai con một việc này Là việc “thiên lương” của nhân loại, Cho con xuông thuật cùng đời hay.”
- “Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó Trần gian thước đất cũng không có Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều Vốn liếng còn một bụng văn đó. Giấy người mực người thuê người in Mướn cửa hàng người bán phường phố. Văn chương hạ giới rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực rất khó. Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng Học ngày một kém tuổi càng cao Sức trong non yếu ngoài chen rấp Một cây che chống bốn năm chiều. Trời lại sai con làm việc nặng quá Biết làm có được mà dám theo.”
Rằng: “Con không nói Trời đã biết Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết Thôi con cứ về mà làm ăn Lòng thong chớ ngại chi sương tuyết!”
Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn Xe trời đã chực ngoài thiên môn Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi Trong xuống trần gian xa dặm khơi Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống Theo đường không khí về trần ai.
Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng Trăng tà đưa lối về non Đoài. Non Đoài đã tới quê trần giới Trông lên chư tiên không còn ai.
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi. Một năm ba trăm sáu mươi đêm, Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!
Nọ bức dư-đồ thử đứng coi, Sông sông núi núi khéo bia cười! Biết bao lúc mới công vờn vẽ, Sao đến bây giờ rách tả tơi. Ấy trước ông cha mua để lại, Mà sau con cháu lấy làm chơi. Thôi thôi có trách chi đàn trẻ, Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.
Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà, Đường xa, người vắng, bóng chiều tà. Một dẫy lau cao, làn gió chạy, Mấy cây thưa lá, sắc vàng pha. Ngoài xe chơ một đống đất đỏ, Hang hốc đùn trên đám cỏ gà. Người nằm dưới mả ai ai đó? Biết có quê đây, hay vùng xa? Hay là thủa trước kẻ cung đao? Hám đạn, liều tên, đón mũi dao; Cửa nhà xa cách, vợ con khuất, Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao. Hay là thủa trước kẻ văn chương? Chen hội công danh nhỡ lạc đường. Tài cao phận thấp, chí khí uất, Giang hồ mê chơi quên quê hương. Hay là thủa trước khách hồng-nhan? Sắc sảo khôn ngoan giời đất ghen; Phong trần xui gặp bước lưu lạc, Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn. Hay là thủa trước khách phong lưu, Vợ con đàn hạc đề huề theo; Quan san xa lạ, đường lối khó, Ma thiêng, nước độc, phong sương nhiều. Hay là thủa trước bậc tài danh? Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh; Giận duyên tủi phận hờn ân ái, Đất khách nhờ chôn một khối tình. Suối vàng sâu thẳm, biết là ai, Mả cũ không ai kẻ đoái hoài. Trải bao ngày tháng chơ chơ đó, Mưa rầu, nắng rãi, giăng mờ soi. Ấy thực quê hương con người ta. Dặn bảo trên đường những khách qua: Có tiếng khóc oe thời có thế, Trăm năm ai lại biết ai mà!
Phòng văn nửa khép cánh thu, Đèn văn một ngọn trông lù dù xanh. Đứng lên, ngồi xuống một mình, Khối tình ai nặn, lửa tình ai khêu. Mập mờ khi thấp khi cao, Trông ra chẳng biết ông nào lại chơi; Nhận lâu sau mới bượch cười, Té ra anh Bóng, chớ ai đâu mà. Bóng ơi, mời Bóng vào nhà. Ngọn đèn khêu tỏ đôi ta cùng ngồi. Cùng nhau rãi một đôi nhời, Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi Bóng nghe. Cõi đời khi cất tiếng oe, Đã bên ngọn lửa lập lòe có nhau. Tương tri từ đấy về sau, Đôi ta một bước cùng nhau chẳng dời. Ta ngồi khi Bóng cùng ngồi; Ta đi, ta đứng, Bóng thời cũng theo. Có khi lên núi qua đèo, Mình ta với Bóng leo trèo cùng nhau. Có khi quãng vắng đêm thâu, Mình ta với Bóng âu sầu nỗi riêng. Có khi rượu nặng hơi men, Mình ta với Bóng ngả nghiêng canh tàn. Có khi trè đượm mầu lan, Mình ta với Bóng bàn hoàn thú xuân. Có khi bút thảo câu thần, Mình ta với Bóng xoay vần nệm hoa. Đôi khi sấm chớp phong ba, Quộc đời nguy biến có ta có mình. Đôi khi gió mát giăng thanh, Bầu giời thanh thú riêng mình với ta. Trăm năm cho đến cõi già, Còn ta còn bóng còn là có nhau. Trần ai mặc những ai đâu, Ai thương tử biệt, ai sầu sinh ly. Còn ta, Bóng nỡ nào đi; Ta đi, Bóng có ở chi cõi trần. Tin nhau đã vẹn muôn phần, Cũng xin rãi hết xa gần cùng nhau. Bóng nghe, Bóng cũng gật đầu.
Khoảng thu đông, sương xuống, gió lạnh, nước ao cạn, Ếch chui vào mả. Rô, riếc, chê, chuối, cua, ốc, tôm, tép đều có ý chê là vô tình. Ếch ngồi mà tự nghĩ riêng rằng: như mình, hai bàn tay không làm được việc gì, từ khi ra với đời, chỉ ăn cho no lòi tù và, rồi phi nhẩy hão vô ích thời lại ngồi dương mắt ra đấy thôi. Thôi thời đành ngồi tho mà chịu tiếng vô tình, còn hơn nhẩy lắm mà vô ích. Nghĩ vậy, Ếch ngồi ngâm một bài, để mà gửi đi rằng:
Phượng kêu trái núi bên tê Hồng bay bốn bể, Nhạn về nơi nao Cánh Bằng đập ngọn phù dao Đầm xa tiếng Hạc lên cao vọng giời Ao thu lạnh lẽo sự đời Cành sương ngọn gió bời bời lá tre Lắng tai Ếch những ngôi nghe Tiếc xuân Quốc đã qua hè, ai thương Tràng Ve khóc đói năn sương Cô Oanh học nói như nhường công tai Nỏ mồm chú Khứu hót ai? Vì ai? bác Cú đêm dài cầm canh Canh khuya cậu Vạc mò ăn To mồm sơi cắp là anh Quạ đùng Diều hâu rít lưỡi giữa đồng Tặc kè nghiến lợi, Thạch sùng chép môi Gáy đâu Gà mái nhà ai Mèo gào, Chó hú, trên giời Lợn kêu Ếch nghe cũng đã đủ điều Ếch trông cũng đã đủ nhiều trò vui Thôi thời Ếch cũng xin lui Ẹp mình, rén bước, Ếch chui vào mà Ngồi mà nhắn bạn ao ta Bèo xưa nước cũ vưỡn là có nhau Còn bèo còn nước còn lâu Còn xuân sắp tới, còn thu chưa tàn Còn nhiều ơn ái chan chan Còn khăng khít nghĩa, còn ran ríu tình Hang lan thanh vắng một mình Mấy lời ỳ ọp thảo trình tương tri Cánh bèo ngọn gió đưa đi.
Đường vô xứ Huế quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ; Yêu em, anh cứ anh vô, Kệ chuông nhà Hồ, mặc phá Tam giang. Xe hơi đã tới đèo Ngang, Ấy qua Hà Tĩnh, đường sang Quảng Bình. Danh sơn gặp khách hữu tình, Đèo Ngang ơi hỡi, là mình với ta. Con cháu chúa, nước non nhà, Không đi không lại nên ra lạ lùng. Dừng xe, lên đính ta trông, Mặt ngoài bể nước, bên trong núi rừng. Nhớ từ hoàng Nguyễn long hưng, Cơ đồ gây dựng cũng rằng từ đây.
Giang san từ ấy đến nay, Nào giăng mặt bể, nào mây trên ngàn. Aỉ xưa bia cũ còn truyền Oai linh cảnh thắng, bàng hoàng khách du. Chiều xuân êm ả như du, Thuận xe lại cứ dậm cù như bay. Càng vào mãi, càng sinh hay, Càng trông cảnh vất đổi thay lạ nhường: Nhỏ to mả trắng bên đường, Xa xa mé bể cồn vàng thấp cao. Dọc đường dân chúng biết bao, Ruông tình hữu ái như rào trận mưa. Rồng tiên cùng họ từ xưa. Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau. Nhận xem áo vải quần nâu, Gái, giai, già, trẻ một mầu không hai. Văn minh giầy đã bán khai, Ngợ sao còn hãy như đời Hùng Vương. Giời tây ngả bóng tà dương, Ô-tô lại đổi lên đường hỏa-xa. Ấy từ QuảngTrị Đông Hà, Đi năm ga nữa vừa là tới Kinh. Kinh thành gái lịch giai thanh, Cảnh thêm Hương Thủy, Ngự Bình điểm tô. Con người xứ Bắc mới vô, Mừng nay được thấy Đế đô một lần.
Hoàng thành cung điện liên vân. Dinh quan Khâm sứ đóng gần một nơi. Quan dân ở cả thành ngoài, Quanh thành tám cửa sông dài bọc quanh. Lại bao phố xá ngoài thành, Trên cầu xe ngựa, ghe mành dưới sông. Đông Ba, Gia Hội càng đông; Gịp cầu nhẹ bước xa trông càng tình. Giòng sông trắng, lá cây xanh, Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai! Ngày xuân có lúc đi chơi, Lăng chùa qua biết các nơi quanh gần. Đế kinh đã gội mưa nhuần, Tiện theo đường sắt vô dần xứ trong. Một đi thêm một lạ lùng: Xe chui hầm tối, bể trùng sóng cao. Dưới đường sóng bể nhẩy reo, Như mừng bạn mới, như chào khách xa. Hải Vân đèo nhớn vừa qua, Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè. Tiết giời như đã sang hè, Mà theo phận đất thời về Quảng Nam. Càng đi rộng, càng biết thêm, Tu Ran cảnh vật càng xem càng mừng.
Nước xuân sóng lục vô chừng, “Lục ba xuân thủy” ai từng học chưa? Vào nhà Tích cổ xem qua, Chiêm Thành này tượng ngày xưa hãy còn! Biết bao vật nhớn hình con, Trạm rồng cột đá chưa mòn nét dao. Cảnh còn như rước như chào, Tiếc thay! ai mới qua vào đã ra. Đường về cũng thế mà xa, Chiều hôm mười tám đến ga Hà thành. Chơi xuân kê lại hành trình, Ngày ba mươi tết hứng tình ra đi. Tự Bất Bạt, qua Việt Trì, Còn năm kỷ vị, còn thì tiết đông. Canh thân ăn tết Thăng Long, Sang ngày mùng bốn vào trong Trung Kỳ. Chơi xuân ta nghĩ cũng kỳ! Gịp đâu may mắn cũng vì có ai. Cám ơn hai chữ liên tài, Còn tình, còn nghĩa, còn dài sắt son. Còn giời, còn nước, còn non, Tiền trình vạn lý, anh còn chơi xa. Chơi cho biết mặt sơn hà, Cho sơn hà biết ai là mặt chơi.
Mưa mưa mãi! ngày đêm rả rích; Giọt mưa thu, dạ khách đầy vơi. Những ai mặt biển chân giời, Nghe mưa, ai có nhớ nhời nước non?
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi, Viết bức thư này, gửi trách ai. Non nước bấy lâu lòng tưởng nhớ, Mà ai tri kỷ vắng tăm hơi!
Đỉnh non Tản, mây giời man mác, Giải sông Đà, bọt nước lênh bênh; Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình, Nước kia mây nọ như mình với ta. Người đâu tá? quê nhà chưa tỏ; Tuổi bao nhiêu? tên họ là chi? Đã sinh cùng nước cùng thì, Cùng ta không biệt mà ly, hỡi mình! Kể từ độ thư tình gửi nhắn, Trải bao năm tin nhạn chờ mong.
Những là ngày hạ đêm đông, Hồi âm chẳng thấy, như không có mình. Hỏi cùng núi, mây xanh chẳng biết; Hỏi cùng sông, nước biếc không hay. Sông nước chẩy, núi mây bay, Mình ơi! có biết ta đây nhớ mình? Cuộc trần thế công danh chẳng thiết, Áng phong lưu huê nguyệt đã thừa; Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ, Trông mây, trông nước, nay chờ mai mong. Mong giáp mặt, mặt không giáp mặt; Chờ tin thư, thư mất tin thư. Tháng ngày thấm thoắt thoi đưa, Tuổi ba mươi lại đã dư một vài. Câu tri kỷ cùng ai tri kỷ, Truyện chung tình ai kẻ chung tình. Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh, Mình ơi, ta nhớ, mà mình quên ta! Không quen biết cũng là quen biết, Ta nhớ mình ta viết thư chơi. Thư tình này bức thứ hai, Tiếp thư, xin chóng giả nhời cho nhau.
Người đời thử ngẫm mà hay Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê! Còn ai ai tỉnh ai mê Những ai thiên cổ đi về những đâu?
Đời đáng chán hay không đáng chán? Cất chén quỳnh, riêng hỏi bạn tri âm Giá khuynh thành nhất tiếu thiên câm Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục Giang hà nhật hạ nhân giai trọc Thiên địa lô trung thục hữu tình Đón đưa ai gió lá chim cành Ấy nhân thế phù sinh là thế thế Khách phù thế chửa dứt câu phù thế Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu Chuyện kim cổ một vài câu phải trái Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ Đời đáng chán biết thôi là đủ Sự chán đời xin nhủ lại tri âm Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm.
Say sưa nghĩ cũng hư đời, Hư thời hư vậy, say thời cứ say. Đất say đất cũng lăn quay, Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười? Say chẳng biết phen này là mấy! Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say. Quái! Say sao say mãi thế này? Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh. Thê ngôn tuý tửu chân vô ích Ngã dục tiêu sầu thả tự do Việc trần ai, ai tỉnh ai lo Say tuý luý nhỏ to đều bất kể. Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế! Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay? Muốn say lại cứ mà say!
Trận gió thu phong rụng lá vàng Lá rơi hàng xóm, lá bay sang Vàng bay mấy lá năm già nửa Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng! Trận gió thu phong rụng lá hồng Lá bay tường bắc, lá sang đông Hồng bay mấy lá năm hồ hết Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không!
Hai mươi nhăm triệu con người Trừ ra khăn yếm còn thời mày râu Chắp tay rồi lại cúi đầu Nghĩ nguồn cơn ấy ai sầu chăng ai! Thế mà cũng kiếp làm trai Con Hồng cháu Lạc cũng nòi giống ta Ai về nhắn bạn quần thoa Chồng con như thế xót xa thế nào? Thương ai phận gái má đào.
Phòng văn lặng ngắt bóng giăng mờ Ngồi nghĩ thơ mà luống thẩn thơ Chỉ thắm ai người tơ tưởng mối Ruột tằm còn những vấn vương tơ Bụi nhờn mặt trắng da đen sạm Tuyết nhuộm đầu xanh tóc bạc phơ Thơ nghĩ chưa ra già đã tới Buồn chăng ai hỡi, bạn làng thơ!
Khuất khúc non sông lắm dịp cầu Những là gió Á với mưa Âu Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt? Khách chẳng công danh cũng bạc đầu! Cảnh cũ đòi phen thay chủ mới Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu Giang hồ chưa đã bao nhiêu bước Mà cuộc trần ai mấy bể dâu!
Lấy thân mà trả nợ đời Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân Phonh lưu rất mựch hồng quần Mười lăm năm, bấy nhiêu lần làm gương Thề hoa chưa ráo chén vàng Bán mình vội phải tìm đường cứu cha Lênh đênh đâu nữa cũng là... Cái thân liệu nhữnh từ nhà liệu đi Khi Vô Tích, khi Lâm Truy Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần Đùnh đùnh gió dụch mây vần Hồnh quân với khách hồnh quần đã xoay Cửa giời rộnh mở đường mây Hay là khổ tận, đến ngày cam lai Triều đình riêng một góc giời Mua vui cũnh được một vài trống canh Kiếp hồnh nhan có monh manh Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi Thương ôi! sắc nước hương giời Ngàn thu bạc mệnh, một đời tài hoa Đau đớn thay phận đàn bà Khéo thay thác xuống làm ma khônh chồnh Lửa hương chốc để lạnh lùnh Nào người tiếc lục tham hồnh là ai?
Lạnh lẽo hơi thu chiếc lá bay Gió đưa người cũ lại về đây Ba Vì tây lĩnh nom thêm trẻ Một giải thu giang nước vẫn đầy Nam Bắc đã nên người duyệt lịch Giang hồ đáng chán vị chua cay Mười ba năm đó bao dâu bể Góp lại canh trường một cuộc say!
Tin xuân đến ngọn cây đào Bảo cho hoa biết ra chào Chúa Xuân Mỗi năm xuân đến một lần Thiều quang chín chục xoay vần chẳng sai Ngày xuân còn mãi không thôi Tuổi xuân ai dễ xanh rồi lại xanh Đường mây những khách công danh Mày râu cụ lớn thay hình thanh niên Thành sầu mấy ả Khâm Thiên Én oanh dẫn lối con thuyền Tầm Dương Làng văn mấy bạn văn chương Bút hoa án tuyết, hơi sương mái đầu Tiểu thư ai đó tựa lầu Thơ đào chưa vịnh, mai hầu bảy ba Trời xanh, trời cũng khi “già” Xuân xanh, xanh mãi đâu mà, hỡi ai! Gặp xuân ta hãy làm vui Kẻo nay xuân đến kẻo mai xuân về Vui xuân rượu uống thơ đề
Quả núi Tiêu San, có nhớ công? Mà em bán nước để mua chồng! Ấy ai khôn khéo tài dan díu Những truyện huê tình biết có không? Một gốc mận già thôi cũng phải Hai trăm năm lẻ thế là xong Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo: Khách cưới nhà ai áo mũ đông?
Người ta hơn tớ cái phong lưu Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo Cảnh có núi sông cùng xóm ngõ Nhà không gạch ngói chẳng gianh pheo Văn chương rẻ ế coi mà chán Giăng gió ham mê nghĩ cũng phèo Kiếp trước nhớ sinh đời Hạ Vũ Mưa vàng ba buổi chán xu tiêu.
Có thể nói, thơ Tản Đà không chỉ đơn thuần là một dòng nghệ thuật độc lập mà còn là chiếc “cầu nối” giữa những truyền thống văn hóa cổ điển và những tầm nhìn mới mẻ của thế kỷ XX. Những sáng tác của ông không chỉ góp phần vào sự thay đổi của văn học, nó còn là nguồn cảm hứng cho những người yêu thơ học hỏi để phát triển văn thơ của mình.
Đón đọc thêm nhiều tác giả cùng các bài thơ hay tại chuyên mục Sống đẹp của voh.com.vn.
Link nội dung: https://diendanmarketing.edu.vn/tho-tan-da-a14922.html