Bài viết của Thái Kim Lan
Mỗi khi nhớ đến Sư Bà Diệu Trí, tôi như thấy lại căn phòng đơn sơ ấy trong ngôi chùa sư nữ Diệu Đức mộc mạc, ẩn nhẫn nằm trong góc con đường đất lóc chóc đá, lối rẽ từ đường dốc Nam Giao đi vào, sau chùa Kiều Đàm là đến chùa Diệu Đức. Lại không thấy gì thêm ngoài cái khung treo trên tường nơi cái bàn con tiếp khách, có chén trà ướp mộc đơn sơ mà cô thí chủ nhỏ bé đến thăm bỏ quên không uống vì đang trố mắt nhìn hai tấm hình đen trắng cỡ chụp ảnh căn cước, một của Ôn Thích Trí Quang, và một của Thầy Nhất Hạnh, thời còn rất trẻ.
Đến chùa, chân ướt chân ráo từ tận phương xa, mà chỉ thấp thỏm muốn xin Sư Bà hai tấm ảnh ấy (bởi tôi đang viết hồi ký 1963) nhưng chưa dám, khoảng thời gian sau, trở lại, hai tấm ảnh không còn, Sư Bà bảo có người lấy mất rồi, chính Sư Bà cũng không hay. Sư Bà nói cả đời tôi chỉ quý có hai vị ấy. Qua đó mà biết rằng, vị Sư nữ đáng kính rất quý trọng tăng tài và nỗi lòng đau đáu chỉ mong Phật giáo VN sáng mãi trên nền trời Việt và năm châu, từ căn phòng hẹp của Sư Bà nhìn ra.
Tôi nói điều trên trước, nhưng thật sự cái trước nhất trong hồi ức của tôi là gương mặt thuần khiết cao quý đến lạ ấy, mà mỗi lần gặp tôi đều ngỡ ngàng, nghĩ rằng mình đang đối diện với một đấng nữ lưu quý phái, từ trong khuê các của đất Thần kinh, chứ không thể thuộc vào nếp sân chùa với những sắc hoa điềm đạm, sơ thái đang tự quên mình là hoa.
Tôi giữ ấn tượng ấy, mỗi lần mỗi phải ngạc nhiên, mà không hỏi thêm nguồn gốc của gương mặt ngọc, chỉ biết con mắt ghi rõ màu sáng của làn da - lúc ấy đã ngoài 80 - hầu như chưa bao giờ biết nắng dữ hay rét căm của mưa dầm xứ Huế, có chăng nắng mưa ngoài hiên ấy, chỉ làm mượt mà màu đá thạch của nước da phụ nữ Huế từ rất xưa. Cho nên đối với tôi chẳng còn quan trọng, câu hỏi về nguyên cớ… vì sao.
Cho nên nghe mà như không nghe… mà nghe được là vui được nghe thế thôi. Như có lần Sư Bà kể chuyện - bên mâm cơm chay mà Sư Bà đặc biệt dành cho tôi ngồi hầu một mình với Sư Bà - “cái nhà Morin to thật to ấy, chị biết không, lúc xưa là của Tây, passage Eden, sang trọng lắm, dành cho tầng lớp quý tộc, sang cả mới vô trong đó được, (sau ni của ông Nguyễn Văn Yến, rồi sau thành Đại Học Văn Khoa thời ông Diệm, rồi chừ thành khách sạn Morin Sài Gòn). Có lần được ba mạ tui dẫn đến, lúc tui còn con gái- còn là tiểu thư đúng hơn- Nghe tiếng nhạc rập rình, có dảy (nhảy) đầm nữa. Tui sợ - vẻ mặt đài các với chữ “sợ” chen lẫn cái rùn vai, ở tuổi 81 như là 18, thật nên thơ!- , tui không ưa. Mỗi lần đi ngang qua là tui run. Tui sợ quá…nên tui xin xuống tóc đi tu…”.
Đơn giản quá đối với tôi,- một kẻ đã từng mê đọc những tiểu thuyết ly kỳ, những hồn bướm mơ tiên, những Lan và Điệp, những tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu,- đến nỗi sự lắng nghe chuyện vị tiểu thư quý phái họ Hồ từ phòng khuê sang cả phát nguyện đi tu, phơn phớt, như chưa sâu bằng chén trà mộc đang nhấp môi. Câu chuyện đi tu của Sư Bà trắng như tờ giấy chưa viết một chữ nào.
Từ trong khuê các bước qua vườn Quan Âm, có cơn bão nào có thể làm tung mái tóc? Sư Bà đi tu như người chỉ biết…một con đường duy nhất. Vì thấy đời…phiền và vì thương đời… cuộc hiện sinh phải trong như nước giếng vườn chùa, không phong ba gợn sóng, an bình với trăng soi. Trong như tiếng hạc thì chỉ có tiếng kinh và hồi chuông khuya sớm, đều đặn từng thời. Một chuyện TU thuần TU, trọn vẹn cả một đời người một trăm lẻ ba năm. Thi hào Nguyễn Du hẳn phải cúi đầu và thôi rớm lệ nhân tình.
Mà TU thì như mẹ tôi thường nói, tu là khổ hạnh, trang nghiêm, nhìn từ những tấm gương của các Sư Bà. Sư Bà nghiêm, giới luật kỹ, giáo huấn các đệ tử nghiêm nhặt theo đúng luật nhà chùa: thanh đạm, khiêm tốn, tinh tấn theo lời Phật, mà Sư Bà là người mẫu mực có tiếng trong đại chúng tăng ni già trẻ suốt 71 năm tu hành.
Khi mới trở về Việt Nam lần đầu, tìm đến chùa Diệu Đức, tôi đã nghe sự nghiêm minh của vị Sư Bà trụ trì nên đâm ra kiêng dè, chỉ dám đứng xa đảnh lễ. Bất chợt về sau, duyên đãi ngộ lại hóa ra là khác, nhẹ hẫng như một thứ tơ vô ý rơi vào tay. Không, không phải rơi, mà “níu”, nếu nhớ không lầm, một cái níu tay thật là bình dị.
Dịp trở về Huế với đoàn ông Boehme (nay cũng hóa người thiên cổ) giúp quí Sư Bà thực hiện các dự án từ thiện cho phụ nữ và trẻ em. Sư bà Diệu Không mời cơm chay trên chùa Hồng Ân, tôi đến vấn an bàn của quí Ni Sư trưởng lão, Sư Bà Diệu Không, Sư Bà Viên Minh, Sư Bà Cát Tường đều là những vị thường gặp, bỗng có một cái níu tay khi tôi chưa kịp cúi đầu đảnh lễ và nghe một giọng Huế đài các cất lên: “Nì mai chị vô chùa Diệu Đức thăm tui…”
Chùa Diệu Đức, vừa là Viện nuôi dưỡng Ni chúng thực hành tu tập, vừa là trường đào tạo cấp trung học cho Ni chúng từ Bắc vô Nam trước và sau 1975, đều được Sư Bà từ lâu chấp chưởng. Chức vị uy nghi không những ở viện mà còn trong hàng giáo phẩm. Ấy thế mà thay vì ra lệnh lại khều tay, rất trẻ như thuở học trò… giọng Huế lại mệ hơn ai…
Cung kính vâng lời. Đến và ngồi ở cái bàn con với chén trà hạt mít thơm mùi hoa mộc, thời gian như ngừng lại nơi nắng lóe ngoài sân chùa… Và từ đó nỗi ngạc nhiên bắt gặp nét thanh xuân như thuở học trò nơi cây lão mai già cỗi nhất trong Ni chúng Huế mà tôi đã từng gặp, còn mãi trong tâm.
Buổi cơm chay lần đầu không ở chùa Diệu Đức mà ở chùa Diệu Nghiêm, nơi Sư Bà xuất thân tu học, nương tựa tổ đình Từ Hiếu. Khác với căn liêu của Sư trụ trì chùa Diệu Đức khá ẩm thấp, u mặc, ẩn nhẫn trong không gian rộng lớn của ngôi chùa sư nữ Bắc Trung Nam Diệu Đức, chùa Diệu Nghiêm- dạo ấy còn là nhà tranh mộc mạc - rất nên thơ nằm khép nép trên một trong những đồi thông chùa Tổ Từ Hiếu. Thuở ấy chùa nghèo, dựng toàn tre tranh - đối với tôi lại đẹp vô song, nhất là được ngồi ăn trên chiếu tre, sàn nhà bằng tre và được hầu chuyện với một vị sư đã ngoài tám mươi.
Tôi không biết nữa, vị nào hơn vị nào đã đưa tôi từ thích thú đến ngạc nhiên và từ ngạc nhiên đến thích thú. Chỉ biết buổi cơm giữ một vị chay tịnh đặc biệt mà tôi tưởng như mình là người khám phá đầu tiên- có lẽ mỗi cuộc trở về là một cuộc bắt đầu của khởi đầu tìm lại dấu xưa đã mất - và vị ấy lưu mãi trên đầu lưỡi mỗi khi nhớ về: vị của trái bùi ngâm muối qua hai mùa mưa nắng. Trái bùi na ná trái ô liu, nhặt được trên đồi quanh chùa Từ Hiếu và Diệu Nghiêm, là món quý hiếm của nhà chùa. Nghe sư bà kể lại càng thấy quí hơn: “Ngày xưa bùi giầm muối là món ăn mỹ vị độc nhất của chùa đó chị. Thời ấy đi tu cực lắm chị ơi. Một trái bùi ăn được hết một chén cơm. Mà vì nó bùi nên cũng nhịn để dành cho quý Ôn quí Sư Bà lớn hơn mình dùng. ..” Sau buổi cơm Sư Bà còn dẫn đến nơi sẽ làm bảo tháp cho mình, một gian nhà tranh với quan tài, thật mộc, thật đạm, gần gũi “một gian nước biếc mây vàng chia đôi”…
Những năm thập niên 90 về sau Sư Bà thường bảo: “Đời ni họ tu sướng quá, chi cũng có, ngày xưa tu cực lắm, khổ hạnh và kham khổ tột cùng…”
Tôi nhìn làn da trắng ngà của vị Sư đã hơn tám mươi, và vị ngạc nhiên ban sơ càng đậm hơn cùng với mùi hương thông bao quanh ngôi chùa càng lúc càng nồng theo với nắng. Hình như đối với Sư Bà, khổ hạnh tựa như mặt nước không chao của cái giếng chùa bình an trên ngọn đồi thông, chưa có một lần soi mặt, chưa gợn mày vì “chưa” một lần tự chấp ngã nếp nhăn bên ngoài, nên chưa biết thời gian - như cảm nhận của tôi hôm ấy, thấy mình đang ngồi giữa không gian và thời gian trôi quanh mà bất ngờ không trôi…nơi cử chỉ còn ngây thơ học trò, nơi cái nheo mắt nhìn tôi, nơi cái kéo áo bắt ngồi, nơi miệng cười mũm tinh nghịch và thú nhận nữ tính: “ Tui thấy chị tui ưa liền, tóc để dài rứa, mặc áo dài lụa Huế ni, ầy, đi Tây đi Tàu mà còn Huế ri… thì thiệt…tui ưa lắm đó…nhiều người đi mô mô về, đông tây nam bắc, môi đỏ má hồng, mắt mũi nhiều màu, áo tây áo đầm răng mà rối ren, tui sợ. Ít ai như chị… tui ưa…” Về sau Sư Bà hay công bố trước mặt các đồ đệ bao quanh.
Những lần nghe như thế, lại không thấy mình mà như nhận ra được bóng dáng thanh xuân nào đó…có người vào chùa…bởi sợ, không phải sợ chi mà chính vì thanh xuân, vì tuyệt diệu thanh xuân…và chợt hiểu thêm chữ “TU”. Càng khổ càng tu, giữ tâm không gợn sóng, tim đập đều nhịp nhân sinh hòa chung với chuông mõ kinh kệ nằm lòng. Từ đó lòng nhân ái trẻ mãi tràn ra rộng khắp.
Mấy mươi năm làm từ thiện không mệt mỏi mãi đến 90 mà vẫn không ngại khó. Có lần cô Huệ An viết thư méc Sư Bà vừa đi từ thiện ở một làng ở sâu trong núi, chưa ai đến được, vậy mà Sư Bà đòi đi theo, can mấy cũng không nghe. Muốn đến làng phải lội qua con suối, mùa mưa nước đầy. Thế là các thị giả phải cõng Sư Bà lội qua suối, trao quà tận tay người làng mới chịu. Lần ấy trở về Sư Bà đau một trận ai nấy thất kinh. Tôi đọc thư kèm theo tấm ảnh một thị giả đang cõng Sư Bà trên lưng, hai cái chân trắng ngần vì phải xắn quần lên tận bẹn, lòng thòng chấm nước, ngẩn người bồi hồi…nhận ra Bà như đang cười trẻ thơ. Tấm lòng từ bi ấy e không bao giờ cạn…Hết lo cơm lại lo học. Sư Bà đã là một trong ba vị Sư Bà luôn tìm mọi cách lập Học Viện Phật Học Cao Đẳng cho tăng ni sinh. Tôi còn nhớ mãi khuôn mặt rạng rỡ đầy hạnh phúc của quí Sư Bà ngày khai giảng Học Viện, như nỗi hoan hỉ vô lượng từ bi…
Lần cuối cùng tôi gặp Sư Bà lại ở một nơi mà tôi không bao giờ nghĩ đến: tại phi trường Phú Bài! Lần ấy tôi đến phi trường vội vàng cho kịp chuyến bay, đang lật đật ba chân bốn cẳng, bỗng thấy một nhóm áo lam quây quần, chợt nhận ra các sư nữ trẻ bu quanh một vị Lão ni, nhìn lại thấy là Sư Bà, tôi vội vàng đến đảnh lễ và hỏi tại sao Sư Bà ngồi ở nơi thị tứ ấy. “Tui đợi đón Sư đệ của tui sắp về!” Giọng rất hãnh diện và hớn hở…Sư đệ của Sư bà là Sư Ông Thích Nhất Hạnh mà bà mấy mươi năm chưa gặp lại. Chao ơi răng Sư Bà không đợi ở chùa? “Đi ri mì vui chơ!” Tấm khăn trùm đầu màu lam đùm đụp che nửa gương mặt, để lộ nửa gương thơ ấu hãnh diện báo tin: “Còn một năm nữa là tui một trăm rồi đó” với một ngón tay giơ lên cho tôi rõ… Ui chao tuổi đã gần trăm mà đi như rứa thì …sợ thiệt!
Chân tôi đã bước xa mà lòng ngoái lại, còn thấy các ni sư trẻ túm tụm quanh vị lão ni trên ghế xi măng với nền đá lạnh, giữa cảnh huyên náo kẻ đi người đến.Trong một giây, hình ảnh nhòa đi trong mắt như đang trôi về nơi một bến sông nào đó, bến của đợi chờ…Nghe nói lần ấy Thiền sư Nhất Hạnh không về được. Thương làm sao nỗi chờ của chị, của mẹ, của con, của chúng sinh trên cõi trần. Chờ, đức nhẫn mà Huệ Năng gọi là sự nhẫn nại chịu đựng kiếp người từ kiếp này qua kiếp khác. Chờ chúng sinh hay chờ chính kiếp nhân sinh trong cõi luân hồi. Tròn hơn thế kỷ đợi chờ trẻ măng như ngày hôm qua, nơi bếp tu khổ hạnh, đằng đẵng tròn hạnh Bồ tát nguyện trở lại trần “cùng tăng thân xin nguyền trở lại, nơi cõi đời làm việc độ sinh, giờ phút này sông núi chứng minh…” Lời nguyện từ khi là cô sư nữ trẻ, lời nguyện không già… Khi Sư Bà tròn nguyện, tôi lại là một đứa học trò đứng xa kính bái…
Thái Kim Lan Vu Lan 2015 Muenchen